Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt dược, có khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu
NẤM BÀO NGƯ
1. Tên gọi khác: Nấm sò, nấm sò xám, nấm hương chân ngắn, nấm trắng, nấm dai… 2. Tên tiếng Anh: Oyster mushroom, Tree Oyster mushroom, Straw mushroom. 3. Tên khoa học: Pleurotus ostreatus (Jacq. ex Fr.) P.Kumm. 1871 -Các phân loài: P. cystidiosus (nấm bào ngư) - Toàn cầu. P. abalonus - (nấm bào ngư)-Đài Loan. P. fuscosquamulosus -(nấm bào ngư) Châu Phi, Châu Âu. P. smithii - (nấm bào ngư) Mexico. Phân loại khoa học Giới (regnum): Nấm (Fungi) Ngành (phylum): Nấm đảm (Basidiomycota) Lớp (class): Nấm tản (Agaricomycetes) Bộ (ordo): Nấm tản (Agaricales) Họ (familia): Nấm bào ngư (Pleurotaceae) Chi (genus): Nấm bào ngư (Pleurotus) Loài (species): Pleurotus ostreatus Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) là một Chi nấn lớm bao gồm nhiều loài nấm ăn được, trong đó điển hình là nấm Bào ngư P.ostreatus. Pleurotus có nghĩa là "tai bên", từ tiếng Hy Lạp ( pleurē ) = "mặt" +(ōtos ) = "tai". Ở Việt Nam nấm bào ngư còn tên gọi là nấm hương chân ngắn, nấm sò xám, nấm trắng, nấm dai… Việc phân loại các loài trong Chi Pleurotus là khó khăn do sự biến đổi kiểu hình cao trên phạm vi địa lý rộng, với sự chồng chéo của các loài trong một vùng địa lý, và sự tiến hóa liên tục và sự biệt hóa . 4. Phân bố Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) được tìm thấy trong vùng khí hậu nhiệt đới và ôn đới trên toàn thế giới. Hầu hết các loài nấm Pleurotus sống hoang dại trên thân cây gổ đã chết còn cứng hay trên gổ cây tùng đã hoai mục. Nấm sò là phổ biến rộng rãi trong các khu rừng ôn đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, mặc dù nó là vắng mặt từ Tây Bắc Thái Bình Dương của Bắc Mỹ , được thay thế bởi P.pulmonarius và P. populinus . Đặc biệt loài nấm bào ngư Nhật (P. eryngii ) có mối liên kết với các loại cây thân cỏ , và nấm củ (P. regium) sản xuất ngầm hạch nấm ngầm .Ngoài ra tất cả các loài nấm sò Pleurotus cũng tiêu diệt tuyến trùng và giun tròn (nematophagous) , bằng cách làm tê liệt chúng với chất độc. Nấm bào ngư được trồng rộng rãi và được sử dụng ở Kerala , Ấn Độ , nơi có nhiều món ăn được chuẩn bị từ nấm. Ngoài thu hái trong tự nhiên, hiện nay nấm bào ngư chủ yếu được trồng trong các túi nhựa với nguyên liệu là mạt cưa, bột gổ, rơm, rạ... Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới mở rộng công nghệ trồng nấm bào ngư vì đây là những loài nấm có giá trị dinh dưỡng cao, dể trồng và sản phẩm đẹp phù hợp với các siêu thị. Ở Việt Nam, mô hình được mở rộng nhiều nơi trong đó có các huyện Châu Thành, Hòn Đất, Kiên Lương và TP. Rạch Giá Kiên Giang. 5. Mô tả Nấm bào ngư Pleurotus, thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc hay mọc chồng lên nhau và có nhiều loại khác về màu, hình dạng, ít bệnh, dễ trồng. Nấm có dạng hình phễu lệch, thân có 3 phần gồm mũ, phiến và cuống nấm. Các mũ có thể được gắn theo chiều ngang (không có gốc). Nếu có gốc, nó là bình thường và mang các tai nấm (decurrent) dọc theo nó. Thuật ngữ pleurotoid được sử dụng cho các nấm có hình dạng chung này. Các bào tử có dạng trơn tru và kéo dài (được mô tả là "trụ"). Trường hợp sợi nấm đáp ứng, họ được tham gia kết nối kẹp. Loài nấm sò Pleurotus không được coi là một loại nấm khung , và hầu hết các loài mọc đơn (monomitic) với một tai nấm mềm. Tuy nhiên trong môi trường khô hạn cây nấm có thể mọc đôi (dimitic) , có nghĩa là nó có thêm sợi nấm phụ giống như dạng nấm khung. Nấm có tai rộng hình nắp vỏ sò, dài từ 5-25 cm, tùy loài có màu sắc thay đổi từ màu trắng kem đến trắng xám, xám, nâu… Giá trị dinh dưỡng Nấm bào ngư là loại nấm giàu dinh dưỡng và dược tính nên được gây trồng trên rơm rạ, bã mía, mùn cưa… để làm thực phẩm và làm thuốc trị bệnh. Thành phần có trong nấm bào ngư tươi gồm: Protide 4%. Glucide 3,4%. Vitamine C, vitamine PP, acide folic.. Các acide béo không no… Khi nấm bào ngư dưới dạng sinh khối khô, hàm lượng proteine chiếm tới 33 – 43%, ngoài ra còn thấy các acide amine như glutamic, valin, isoleucin… tuy nhiên cũng chứa một hàm lượng rất nhỏ chất arabitol nên khi ăn vào có thể gây khó chịu trong đường tiêu hóa ở một số cá nhân. 6. Công dụng của nấm bào ngư Đông y cho rằng nấm bào ngư có vị ngọt, tính ấm, công năng tán hàn và thư cân. Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt dược, có khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu...; và đặc biệt là đã có một số công trình nghiên cứu còn cho rằng nấm bào ngư còn có khả năng chống bệnh ung thư (hướng nghiên cứu này sẽ được tiếp tục làm sáng tỏ trong tương lai). Tác dụng chống ung thư của nấm bào ngư do sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung ở phiến nấm và đặc biệt ở bào tử nấm. Nấm sò là một trong những thường tìm nấm hoang dã, mặc dù nó cũng có thể được trồng trên rơm rạ và các loại vật liệu khác. Nó thường có hương thơm của hồi do sự hiện diện của benzaldehyde. Với các kết quả nghiên cứu dược lý người ta cho biết trong nấm bào ngư có chất pleutorin có công hiệu kháng khuẩn gram dương và kháng cả tế bào ung thư… Các nghiên cứu khác có tác dụng làm giảm thiểu đối với cholesterol và đường máu cho kết quả khả quan. Trong tự nhiên nấm bào ngư có tiết ra chất kháng tuyến trùng và giun tròn. Do đó khi ăn nấm bào ngư còn có tác dụng phòng ngừa giun, sán rất tốt. Các bài thuốc từ nấm bào ngư 1-Trị mỡ máu, tiểu đường: Nấm bào ngư 100 – 200g, nấu lấy nước uống hằng ngày. (theo Bác sĩ Hoàng Xuân Đại). 2-Tây y: Nghiên cứu cho thấy trong nấm bào ngư có chức đến 2,8% chất lovastatin so với trọng lượng khô. Người ta chiết xuất chất này để chế ra thực phẩm chức năng và chế thuốc làm giảm cholesterol.
1. Tên gọi khác: Nấm sò, nấm sò xám, nấm hương chân ngắn, nấm trắng, nấm dai…
2. Tên tiếng Anh: Oyster mushroom, Tree Oyster mushroom, Straw mushroom.
3. Tên khoa học: Pleurotus ostreatus (Jacq. ex Fr.) P.Kumm. 1871
-Các phân loài: P. cystidiosus (nấm bào ngư) - Toàn cầu.
P. abalonus - (nấm bào ngư)-Đài Loan.
P. fuscosquamulosus -(nấm bào ngư) Châu Phi, Châu Âu.
P. smithii - (nấm bào ngư) Mexico.
Phân loại khoa học
Giới (regnum):
Nấm (Fungi)
Ngành (phylum):
Nấm đảm (Basidiomycota)
Lớp (class):
Nấm tản (Agaricomycetes)
Bộ (ordo):
Nấm tản (Agaricales)
Họ (familia):
Nấm bào ngư (Pleurotaceae)
Chi (genus):
Nấm bào ngư (Pleurotus)
Loài (species):
Pleurotus ostreatus
Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) là một Chi nấn lớm bao gồm nhiều loài nấm ăn được, trong đó điển hình là nấm Bào ngư P.ostreatus.
Pleurotus có nghĩa là "tai bên", từ tiếng Hy Lạp ( pleurē ) = "mặt" +(ōtos ) = "tai".
Ở Việt Nam nấm bào ngư còn tên gọi là nấm hương chân ngắn, nấm sò xám, nấm trắng, nấm dai…
Việc phân loại các loài trong Chi Pleurotus là khó khăn do sự biến đổi kiểu hình cao trên phạm vi địa lý rộng, với sự chồng chéo của các loài trong một vùng địa lý, và sự tiến hóa liên tục và sự biệt hóa .
4. Phân bố
Chi nấm bào ngư hay nấm sò (Pleurotus) được tìm thấy trong vùng khí hậu nhiệt đới và ôn đới trên toàn thế giới. Hầu hết các loài nấm Pleurotus sống hoang dại trên thân cây gổ đã chết còn cứng hay trên gổ cây tùng đã hoai mục.
Nấm sò là phổ biến rộng rãi trong các khu rừng ôn đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, mặc dù nó là vắng mặt từ Tây Bắc Thái Bình Dương của Bắc Mỹ , được thay thế bởi P.pulmonarius và P. populinus .
Đặc biệt loài nấm bào ngư Nhật (P. eryngii ) có mối liên kết với các loại cây thân cỏ , và nấm củ (P. regium) sản xuất ngầm hạch nấm ngầm .Ngoài ra tất cả các loài nấm sò Pleurotus cũng tiêu diệt tuyến trùng và giun tròn (nematophagous) , bằng cách làm tê liệt chúng với chất độc.
Nấm bào ngư được trồng rộng rãi và được sử dụng ở Kerala , Ấn Độ , nơi có nhiều món ăn được chuẩn bị từ nấm. Ngoài thu hái trong tự nhiên, hiện nay nấm bào ngư chủ yếu được trồng trong các túi nhựa với nguyên liệu là mạt cưa, bột gổ, rơm, rạ...
Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới mở rộng công nghệ trồng nấm bào ngư vì đây là những loài nấm có giá trị dinh dưỡng cao, dể trồng và sản phẩm đẹp phù hợp với các siêu thị.
Ở Việt Nam, mô hình được mở rộng nhiều nơi trong đó có các huyện Châu Thành, Hòn Đất, Kiên Lương và TP. Rạch Giá Kiên Giang.
5. Mô tả
Nấm bào ngư Pleurotus, thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc hay mọc chồng lên nhau và có nhiều loại khác về màu, hình dạng, ít bệnh, dễ trồng. Nấm có dạng hình phễu lệch, thân có 3 phần gồm mũ, phiến và cuống nấm.
Các mũ có thể được gắn theo chiều ngang (không có gốc). Nếu có gốc, nó là bình thường và mang các tai nấm (decurrent) dọc theo nó. Thuật ngữ pleurotoid được sử dụng cho các nấm có hình dạng chung này.
Các bào tử có dạng trơn tru và kéo dài (được mô tả là "trụ"). Trường hợp sợi nấm đáp ứng, họ được tham gia kết nối kẹp. Loài nấm sò Pleurotus không được coi là một loại nấm khung , và hầu hết các loài mọc đơn (monomitic) với một tai nấm mềm. Tuy nhiên trong môi trường khô hạn cây nấm có thể mọc đôi (dimitic) , có nghĩa là nó có thêm sợi nấm phụ giống như dạng nấm khung.
Nấm có tai rộng hình nắp vỏ sò, dài từ 5-25 cm, tùy loài có màu sắc thay đổi từ màu trắng kem đến trắng xám, xám, nâu…
Giá trị dinh dưỡng
Nấm bào ngư là loại nấm giàu dinh dưỡng và dược tính nên được gây trồng trên rơm rạ, bã mía, mùn cưa… để làm thực phẩm và làm thuốc trị bệnh.
Thành phần có trong nấm bào ngư tươi gồm:
Protide 4%.
Glucide 3,4%.
Vitamine C, vitamine PP, acide folic..
Các acide béo không no…
Khi nấm bào ngư dưới dạng sinh khối khô, hàm lượng proteine chiếm tới 33 – 43%, ngoài ra còn thấy các acide amine như glutamic, valin, isoleucin… tuy nhiên cũng chứa một hàm lượng rất nhỏ chất arabitol nên khi ăn vào có thể gây khó chịu trong đường tiêu hóa ở một số cá nhân.
6. Công dụng của nấm bào ngư
Đông y cho rằng nấm bào ngư có vị ngọt, tính ấm, công năng tán hàn và thư cân.
Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt dược, có khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường ruột, tẩy máu xấu...; và đặc biệt là đã có một số công trình nghiên cứu còn cho rằng nấm bào ngư còn có khả năng chống bệnh ung thư (hướng nghiên cứu này sẽ được tiếp tục làm sáng tỏ trong tương lai).
Tác dụng chống ung thư của nấm bào ngư do sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung ở phiến nấm và đặc biệt ở bào tử nấm. Nấm sò là một trong những thường tìm nấm hoang dã, mặc dù nó cũng có thể được trồng trên rơm rạ và các loại vật liệu khác. Nó thường có hương thơm của hồi do sự hiện diện của benzaldehyde.
Với các kết quả nghiên cứu dược lý người ta cho biết trong nấm bào ngư có chất pleutorin có công hiệu kháng khuẩn gram dương và kháng cả tế bào ung thư… Các nghiên cứu khác có tác dụng làm giảm thiểu đối với cholesterol và đường máu cho kết quả khả quan.
Trong tự nhiên nấm bào ngư có tiết ra chất kháng tuyến trùng và giun tròn. Do đó khi ăn nấm bào ngư còn có tác dụng phòng ngừa giun, sán rất tốt.
Các bài thuốc từ nấm bào ngư
1-Trị mỡ máu, tiểu đường: Nấm bào ngư 100 – 200g, nấu lấy nước uống hằng ngày. (theo Bác sĩ Hoàng Xuân Đại).
2-Tây y: Nghiên cứu cho thấy trong nấm bào ngư có chức đến 2,8% chất lovastatin so với trọng lượng khô. Người ta chiết xuất chất này để chế ra thực phẩm chức năng và chế thuốc làm giảm cholesterol.