CÂY CÓC

Cập nhật: 11h13 | 04/09/2013

Dân Nam Bộ thường dùng trái cóc còn xanh, gọt vỏ rồi ngâm trong một thứ nước pha mặn, ngọt, sau đó thoa lên một lớp muối ớt đo đỏ trông rất hấp dẫn, bày bán nhiều nơi. Có người lại thích ăn cóc chín vì có thịt mềm, ngọt, nhiều nước, hương vị thơm ngon. Tuy nhiên, món gỏi cóc xanh với tôm khô, cá khô thì đúng điệu là món nhậu “đặc sản Nam Bộ”.

CÂY CÓC

1. Tên gọi khác: Cây cóc Miền nam, cây cóc thường. 

2. Tên tiếng Anh: Otaheite apple, Tahitian quince, Polynesian plum, Jew plum, Ambarellam, Ambarella blossoms, Dwarf Golden Plum.

3. Tên tiếng Pháp: Pomme cythere, Pommier de Cythère.

4. Tên khoa học: Spondias dulcis L.

- Tên đồng nghĩa: Spondias dulcis Forst, Spondias cytherea Sonn.

- Các loài tương cận:

- Cóc Thái (Spondias lutea L./Spondias mombin L.).

- Cóc chua Ấn  Độ hay Cóc rừng (Spondias pinnata).

Phân loại khoa học:

Giới (regnum):

Thực vật (Plantae)

Ngành (Division):

Thực vật có hoa (Angiospermae)

Lớp (Class):

Hai lá mầm thực sự (Eudicots)

Phân lớp (Subclass):

Phân lớp Hoa hồng (tạm) (Rosids)

Bộ (ordo):

Bồ hòn (Sapindales)

Họ (familia):

Xoài/Đào lộn hột (Anacardiaceae)

Chi (genus):

Cóc (Spondias)

Loài (species):

Spondias dulcis

Trong số 17 loài cây Cóc được tìm thấy, có 10 loài có lá và quả ăn được, được thuần hóa để trồng ở vùng nhiệt đới Châu Á và Nam Mỹ. Trong đó có các loài quan trọng là:

1-Cóc thường hay Cóc trồng Việt Nam (Spondias dulcis L.).

2-Cóc Thái (Spondias lutea L. = Spondias mombin L.).

3-Cóc chua Ấn  Độ hay Cóc rừng (Spondias pinnata).

Cả ba loài này có giá trị dinh dưỡng và dược liệu gần giống như nhau.

5. Phân bố

-Cây Cóc Thái (Spondias lutea L. = Spondias mombin L.) do dược thuần hóa, chọn lọc, theo hướng thâm canh nên có quả to, năng suất cao, chất lượng tốt nên trong vài thập kỷ trở lại đây được giới thiệu trồng làm cây cảnh và cây ăn quả trên vùng nhiệt đới khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.

Cây cóc Miền Nam Việt nam (S. dulcis) phân bố ở như Sóc Trăng, Cà Mau...

6. Mô tả

+ Thân: Cây cóc thuộc loại cây thân mộc cở lớn, mọc nhanh, cao 8-18 m, trung bình 9-12 m, phân nhánh nhiều, cành dòn dễ gẫy.

+ Lá: Lá kép, lẻ, to, dài 20-60 cm, mọc ở ngọn nhánh; lá mang 7-12 đôi lá chét dài 6.25-10 cm, hình thuôn tròn; mép lá có răng cưa. Vào đầu mua khô, lá cây chuyển đổi sang màu vàng tươi, rụng.

+ Hoa:Hoa mọc thành chùy to, có thể dài đến 30 cm, chùy mang ít hoa thường thòng xuống. Hoa nhỏ, màu trắng, có 10 nhị.

+ Quả: Quả thuộc loại quả hạch, hình trứng hay hình bầu dục, dài 6-8 cm, rộng 4-5 cm, da ngoài vàng-cam; thịt màu vàng-xanh nhạt, dòn, vị chua; Quả mọc thành chùm từ 2-12 quả , thòng xuống.

+ Hạt: Hạt khá lớn hình bầu dục có nhiều gai dạng sợi dính chặt với thịt, có 5,6 ô cách nhau không đều. 

7. Thành phần hóa học

+Giá trị dinh dưỡng của quả cóc chín:

Theo tài liệu ở Việt Nam:

Qua phân tích, các nhà khoa học đã chứng minh được thành phần thịt trái cóc như sau: glucid 8% -10,5%; protein 0,5% - 0,8%; lipid 0,3% - 1,8%; cellulose 0,9% - 3,6%; tro 0,4% - 0,7%; acid 0,4% - 0,8%.

Trong 100 g thịt của trái cóc chứa tới 42 mg acid ascorbic, ngoài ra còn có nhiều chất sắt (Fe).

(Theo Lương y Đinh Công Bảy - Báo Người lao động).

Ngoài thành phần dinh dưỡng trên, một số bộ phận khác còn chứa:

-Các phân chất về thành phần chất nhựa (gôm) màu vàng nhạt trong trái Cóc tại ĐH La Universidad del Zulia (Venezuela) cho thấy hợp chất polysaccharide trong gôm chứa galactose, arabinose, mannose, rhamnose, glucuronic acid và chất chuyển hóa loại 4-O-methyl. (Carbohydrate Research Số 28-2003).

Dịch chiết này có hoạt tính kích thích sự hoạt động của thực bào ở màng ruột nên có tác dụng hạn chế viêm nhiễm đường ruột. (Fitoterapia Số 76, tháng 12/ 2005).

-Hạt cóc chứa nhiều khoáng chất như Calcium, Magnesium, Phosphorus, Potassium, Sulfur. 

-Pectin trong Vỏ trái Cóc: Nghiên cứu tại ĐH Cameroun, phối hợp với Trung Tâm Nghiên cứu Nantes (Pháp) phân chất vỏ của quả cóc (thường bị vất bỏ) ghi nhận:Vỏ cóc chứa 9-30% pectin, uronic acid (557-727 mg/g trọng lượng khô), đường trung tính 9125-158 mg/g.

Về nguyên liệu hóa học, thành phần Viamin C và chất Pectin trong vỏ quả cóc chín có giá trị cao hơn so với giá trị của phần thịt quả nhưng ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á vứt bỏ do không biết sử dụng, trong khi đó các nước có ngành dược và công nghệ thực phẩm ở vùng ôn đới phải tìm các nguồn nguyên liệu chiết xuất Vitamin C và pectin khác có hàm lượng thấp hơn và giá thành cao hơn!

Công dụng của cây cóc

ấm muối ớt hoặc nước mắm đường hay mắm ruốt là món hảo của trẻ con, của quý bà để ăn chơi trong những buổi trưa hè. Quả cóc chua bổ dọc ngâm nưới muối trong lọ được bày bán bên đường phố gần trường học là món ăn vặt rất bắt mắt với các em nữ sinh.

-Tại các đảo quốc Fiji, Samoa và Tonga (Châu Đại Dương) quả cóc chín được sử dụng để làm mứt.

-Tại Jamaica (Nam Mỹ), quả cóc là một món ăn mới lạ, đặc biệt là trẻ em. Quả được bóc vỏ và rắc muối.Vị chua và mặn cung cấp giải trí. Trái cây cũng được làm thành một thức uống ngọt với đường và gia vị với,gừng.

+ Ở Việt nam:

Dân Nam Bộ thường dùng trái cóc còn xanh, gọt vỏ rồi ngâm trong một thứ nước pha mặn, ngọt, sau đó thoa lên một lớp muối ớt đo đỏ trông rất hấp dẫn, bày bán nhiều nơi. Có người lại thích ăn cóc chín vì có thịt mềm, ngọt, nhiều nước, hương vị thơm ngon. Tuy nhiên, món gỏi cóc xanh với tôm khô, cá khô thì đúng điệu là món nhậu “đặc sản Nam Bộ”.

Trái cóc từ lâu đã được ghi nhận là có tác dụng kích thích tiêu hóa, giúp ăn ngon miệng, giải nhiệt, sinh tân dịch, giải khát.

Nhai thật kỹ trái cóc với chút muối rồi nuốt dần còn giúp trị đau hầu họng.

Dân ở một số nơi còn nghiền nhỏ thịt trái cóc để chế món ăn có mùi thơm dễ chịu, tác dụng tiêu thực.

Cha ông ta từ lâu cũng đã sử dụng vỏ cây cóc làm nguyên liệu trong bài thuốc trị tiêu chảy, hiện Đông y vẫn dùng và cho hiệu quả tốt. Đó là lấy vỏ cây cóc  và vỏ cây chiêu liêu nghệ, sắc uống (lấy khoảng 4 miếng vỏ cây của 2 loại, mỗi miếng bằng ngón tay cái, nấu với 750 ml nước còn 250 ml, chia làm 3 lần uống trong ngày).

+ Ở nước ngoài:

-Ở Campuchia: Vỏ của cây cóc dùng phối hợp với vỏ cây Chiêu liêu, mỗi thứ 4 mảnh nhỏ, cỡ ngón tay cái, sắc chung trong 2 lít nước, đến còn 0.5 lít, uống để trị tiêu chảy (chia làm 3 lần).

 -Ở Ấn Độ, cóc chua Ấn  Độ (Spondias pinnata) được gọi là ambra, jangli am. Vỏ cây dùng trị đau bao tử, kiết lỵ; hay nghiền nát trộn nước đắp trị đau khớp xương, và thấp khớp; Quả dùng trị yếu tiêu hóa do mật; Nước sắc từ lá dùng trị xuất huyết. Rễ dùng điều hòa kinh nguyệt. 

 

 

 

Tin cùng chuyên mục