CÂY BẦN CHUA

Cập nhật: 10h46 | 04/09/2013

Theo Đông y: Quả bần có vị chua của phó mát, tính mát; có tác dụng tiêu viêm, giảm đau. Lá có vị chát, có tác dụng cầm máu.

CÂY BẦN CHUA

1. Tên gọi khác: Bần sẻ, Bần dĩa (Nam Bộ), Thủy liễu. 

2. Tên khoa học: Sonneratia caseolaris (L.) Engl. 

3. Phân bố

Cây bần là loài cây rừng ngập mặn nhiệt đới, có nguyên sản ở vùng Nam Á và Đông Nam Á, được phát tán rộng khắp Châu Á, Châu Phi và Châu Đại dương.

Hiện nay các nước có nhiều cây bần mọc hoang và được trồng như: Châu Phi, Sri- Lanka, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Philippin, Indonesia, Timor, Đảo Hải Nam (Trung Quôc), Đông Bắc Australia và một số nước ở Châu Đại dương như Niughnia, New Guinea, Solomon Islands, New Hebrides… (Little, 1983).

Ở Việt Nam cây bần mọc hoang và được trồng ở rừng ngập mặn ven biển từ Bắc vào Nam nơi có nhiều bùn và bãi bồi. Ở Miền Bắc cây bần mọc thành rừng gần như thuần loại ven bờ biển và vùng cửa sông như ở Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở Miền Nam cây bần là thành phần chính yếu của các rừng ngập mặn tự nhiên ven biển và chúng mọc dày đặt ven sông rạch ở Đồng bằng sông cửu long như Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Sóc Trăng, Kiên Giang.

4. Mô tả

+ Thân: Bần chua thuộc loài thân gổ đại mộc, có nhiều cành. Cây gỗ cao 10-15m, có khi cao tới25m.  Cành non màu đỏ, 4 cạnh, có đốt phình to. Gổ xốp, bở, vỏ thân chứa nhiều tanin.

+ Rể: Rể gốc to, khỏe, mọc sâu trong đất bùn. Từ rể mọc ra nhiều rễ thở (bất hay Cạt bần (Nam Bộ) thành từng khóm quanh gốc.

+ Lá: Lá đơn, mọc đối, dày, giòn, hơi mọng nước, hình bầu dục hoặc trái xoan ngược hay trái xoan thuôn, thon hẹp thành cuống ở góc, cụt hay tròn ở chóp, dai, dài 5-10cm, rộng 35-45mm. Cuống và một phần gân chính màu đỏ, gân giữa nổi rõ ở cả 2 mặt, cuống dài 0,5 - 1,5cm.

+ Hoa: Cụm hoa ở đầu cành, có 2-3 hoa, rộng 5cm, có cuống hoa ngắn.

Đài hợp ở gốc, có 6 thùy dày và dai, mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng. Cánh tràng 6, màu trắng đục, hình dải, thuôn về hai đầu. Nhị có chỉ hình sợi, bao phấn hình thận. Bầu hình cầu dẹt, vòi dài, đầu hơi tròn.

+ Quả: Quả mọng hơi nạc, khi còn non cứng, dòn, khi chín quả mọng, thịt quả mềm, ruột chứa nhiều hạt. Quả có đường kính 5-10 cm, cao 2-3 cm, gốc có thùy đài xòe ra.

+ Hạt: Hạt nhiều, dẹt.

Khi chín quả rụng và trôi nổi theo nước thủy triều, hạt sống lâu và phát tán mạnh trên các bải bồi. Muốn trồng cây bần không cần gieo hạt (mặc dù hạt quả bần chí khi gieo có thể mọc mầm trên 90%). Chỉ cần nhổ những cây bần con mọc sắn trong tự nhiên (rất nhiều) để trồng.

5. Thành phần hóa học

+Trong thân:

Vỏ thân và gỗ chứa archin (emodin), archinin (chrysophanic acid) và archicin. Trong quả có chất màu, archin và archicin.

Vỏ thân chứa nhiều tanin (10-20%) có thể dùng thuộc da.

Trong vỏ thân có chất Emodin và axit chrysophanic có thể làm các chất màu trong thực phẩm và thuốc thô (Perry, 1980).

Gỗ bần xốp, tỷ lệ bột giấy thu hồi khoảng 52,7% (trong đó có 8,5% lignin, 17,6% pentosan có màu nâu).

Ngoài ra trong gổ và vỏ thân cây bần có có hai chất archin (C15H10O5) và archinin (C15H14O12) có thể khai thác làm chất màu thực phẩm (CSIR,1976).

+Trong quả bần chín có:

Có hàm lượng pectin 11% ở dạng chất trong suốt (ZMB).

Có 2 chất  flavonoïdes chống oxy hóa được phân lập là :lutéoline và lutéoline 7-O-glucoside.

Công dụng

Theo Đông y: Quả bần có vị chua của phó mát, tính mát; có tác dụng tiêu viêm, giảm đau. Lá có vị chát, có tác dụng cầm máu.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta lấy quả chua ăn sống hay nấu canh cá. Cũng được sử dụng làm thuốc đắp vào chỗ viêm tấy vì bong gân.

Ở Ấn Độ, người ta dùng dịch quả lên men làm thuốc ngăn chặn của chứng xuất huyết.

Dùng lá giã ra, thêm tí muối, làm thuốc đắp tốt các vết thương đụng giập và vết thương nhẹ. (Perry, 1980).

Ở Malaixia, người ta giã lá lẫn với cơm làm thuốc đắp chữa bí tiểu tiện. (Perry, 1980).

Ở Miến Điện, người dân dùng trái bần nghiền nát thành thuốc dán hay bột nhảo đắp lên gọi là thuốc dán Đông Phương, trộn với muối, đắp lên những vết cắt và những vết bầm (ứ máu) tím. (Perry, 1980).

Ở Mã Lai, dùng bần chín để trị những ký sinh trùng trong ruột, giun, sán. Ăn bần chín để trị ho và dùng lá bần non nghiền nát để trị các bệnh thiếu máu giảm tiểu cầu (hématurie) và bệnh đậu mùa variole. (Perry, 1980).

Trái bần chín có thể dùng sống hay chín.

Nước ép bần lên men đã có thể dùng để cầm máu. 

Đồng thời hoa bần đâm nát, vắt nước điều trị bệnh tiểu ra máu. (Perry, 1980).

 

 

Tin cùng chuyên mục