Theo đông y: Xưa nay, củ riềng vẫn được biết đến là một loại gia vị sử dụng trong nấu ăn còn tác dụng chữa bệnh thì không phải ai cũng biết.
CỦ RIỀNG
1. Tên gọi khác: Riềng thuốc, Lương khương (vị thuốc). Cao Lương Khương. 2. Tên tiếng Anh: Lesser Galangal 3. Tên khoa học: Alpinia officinarum Hance. -Tên đồng nghĩa: A. graminifolia; Languas officinarum (Hance) P.H.Hô; -Các loài tương cận: Alpinia caerulea - Riềng Australia Alpinia galanga - Riềng nếp, riềng ấm Alpinia mutica - Riềng lá hẹp Alpinia purpurata - Riềng đỏ, riềng tía Alpinia zerumbet - Riềng ấm, riềng đẹp, sẹ nước, gừng ấm Alpinia zingiberina- Riềng Thái Phân loại khoa học Bộ (ordo): Gừng (Zingiberales) Họ (familia): Gừng (Zingiberaceae) Phân họ (subfamilia): Riềng (Alpinioideae) Tông (tribus): Riềng (Alpinieae) Chi (genus): Riềng (Alpinia) Loài (species): Riềng : Alpinia officinarum Phân loại khoa học Bộ (ordo): Gừng (Zingiberales) Họ (familia): Gừng (Zingiberaceae) Phân họ (subfamilia): Riềng (Alpinioideae) Tông (tribus): Riềng (Alpinieae) Chi (genus): Riềng (Alpinia) Loài (species): Riềng : Alpinia officinarum Chi Riềng (Alpinia) là một chi thực vật lớn, chứa trên 230 loài thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Các phương pháp nghiên cứu dựa trên chuỗi ADN đã chỉ ra rằng các loài trong chi này phát sinh từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó tương ứng với cả sáu nhánh được phân bổ trong tông Riềng (Alpinieae), và nó không phù hợp với phân loại của Smith (1990) về chi này. Chi Riềng được đặt tên cho Prospero Alpini, một nhà thực vật học người Ý thế kỷ 17 là người chuyên về thực vật kỳ lạ. Từ "riềng" (Lương Khương) xuất phát từ hình thức tiếng Ả Rập của một từ Trung Quốc cho cây Họ gừng, "Liang-Tiang" (Lương Khương). Cây riềng (Alpinia officinarum) là một loài thực vật thuộc Chi riềng ((Alpinia) trong họ gừng, được xem là có nguồn gốc từ Trung Quốc. 4. Phân bố Các loài trong chi Riềng có mặt tại các vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á và trên các đảo ở Thái Bình Dương, và được dùng phần lớn như là cây gia vị, cây thuốc và cây cảnh do những bông hoa sặc sỡ của chúng. Cây riềng (Alpinia officinarum) có nguồn gốc ở Trung Quốc, nơi mà tên của nó xuất phát. Cây riềng phát triển chủ yếu trên bờ biển phía Đông Nam và ở Hải Nam Trung Quốc. Ngoài Trung Quốc cây riềng còn thấy mọc hoang và được trồng ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan và Ấn Độ. Kể từ thế kỷ thứ 17 cây riềng theo đường hàng hàng hải được giao thương trên khắp thế giới. Ấn Độ là nước xuất khẩu củ riềng lớn thứ hai trên thế giới sau Hồng Kông. Ở Việt Nam cây riềng mọc hoang và được trồng phổ biến ở mọi miền đất nước. Không chỉ được dùng làm gia vị mà còn được sử dụng làm thuốc. Ở miền nam, riềng được trồng ở hầu hết các tỉnh như Hồ chí Minh, Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau... 5. Mô tả Cây riềng thuộc loại cây thân thảo sống nhiều năm, thích nghi nơi bóng râm nhưng kỵ ngập nước + Thân: Cây riềng có hai loại thân là thân rể và thân trên không: Thân rể: Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ có phân nhánh, vỏ màu đỏ nâu, ruột màu vàng sáng. Được gọi là củ riềng. Củ riềng là bộ phận chủ yếu được dùng làm gia vị và làm thuốc. Củ riềng có tên là phong khương, cao lương khương, tiểu lương khương, có khá (Thái), kìm sung (Dao). Thân trên không: Thân cây là các lá phiến ôm sát nhau thành bẹ, giống như ở các loài chuối. Là những cành mọc từ thân rể có chiều cao 40 -110 cm, có thể đến 1,5 m. Trên thân có đốt mang lá, thân già có thể phát triển nhánh bên. Hoa mọc trên thân khí sinh, là đỉnh của phần thân thật đã phát triển từ thân rể. + Rễ: Có dạng rể chùm, mọc từ các đốt ở dưới gốc và từ thân rễ. + Lá: Lá không cuống, hình mũi mác hẹp, dài 20 - 30cm, rộng 1,2 - 2,5cm; hai đầu đều nhọn, bẹ lá dạng vẩy, lưỡi bẹ dạng vẩy nhọn. + Hoa: Cụm hoa hình chùy, mọc ở ngọn, dài 6 - 10cm, có lông mềm. Cụm hoa mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một màu xanh, một màu trắng. Hoa mọc sít nhau, có lá bắc nhỏ. Đài hoa hình ống, có lông, chia 3 răng ngắn. Tràng có ống ngắn, có lông ở cả hai mặt, có 3 thùy tù, lõm, thùy lưng lớn hơn. Bao phấn hình chữ nhật. Cánh môi trắng có rạch màu đỏ rượu vang, hình trứng. Nhị lép hình dùi ngắn và tù. Bầu có lông, nhụy lép 2, hình bản dày, gần như vuông. + Quả: Quả hình cầu, có lông, rộng 1cm, màu hồng. 6. Thành phần hóa học Theo nghiên cứu hiện đại, thành phần hóa học của riềng có khoảng 1% tinh dầu, có mùi thơm long não, chủ yếu có xineola và metylxinnamat. Ngoài ra, còn có chất dầu vị cay gọi là galangola được dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi... Củ riềng chứa hàm lượng lớn flavonol galangin là chất đã được chứng minh là ngăn cản quá trình phát triển của tế bào ung thư vú. Công dụng Ở Trung Quốc và Đông Nam Á, củ và thân lá cây riềng được dùng làm gia vị và làm thuốc, bộ phận được dùng phổ biến nhất là phần thân rể được gọi là củ riềng, có thên vị thuốc là Lương Khương. + Theo đông y Xưa nay, củ riềng vẫn được biết đến là một loại gia vị sử dụng trong nấu ăn còn tác dụng chữa bệnh thì không phải ai cũng biết. Trong Đông y, Riềng có tên là Phong khương, Cao lương khương, Tiểu lương khương, Có khá (Thái), Kìm sung (Dao). Cái tên Cao Lương Khương có nghĩa là Gừng (Khương) mọc ở đất Cao Lương (Trung Quốc) mà thành tên. Theo Đông y, củ riềng có vị cay thơm, tính ấm vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu thức ăn, chữa đau bụng do lạnh, phong thấp, sốt rét, hắc lào, lang ben… Riềng là loại thuốc sát trùng rất tốt giúp vết thương màu lành mà ít dể lại sẹo. Riềng cũng giúp giảm đau các khớp và cơ bắp. Những người mắc các bệnh về dạ dày sử dụng riềng trong chế độ ăn sẽ cải thiện phần nào tình trạng của bệnh. Ngoài ra, nó cũng trị được các chứng buồn nôn, đầy hơi hay thấp khớp dạng thấp. Do đặc tính kháng khuẩn tốt nên riềng luôn là vị thuốc bổ tốt cho sức khỏe , giúp ngăn ngừa các loại bệnh tật. Tuy nhiên với những người mặc bệnh về đường tiêu hóa và những phụ nữ đang mang thai tuyệt đối không nên sử dụng thường xuyên riềng vì nó có thể gây ra một số tác dụng phụ, có hại cho cơ thể. + Theo Tây y: Theo nghiên cứu hiện đại, thành phần hóa học của riềng có khoảng 1% tinh dầu, có mùi thơm long não, chủ yếu có xineola và metylxinnamat. Ngoài ra, còn có chất dầu vị cay gọi là galangola được dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi... Củ riềng thường được dùng để điều chế thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi, đau bụng đi lỏng, nôn mửa, ợ hơi, đau dạ dày, cảm sốt, sốt rét, có thể nhai dập chữa đau răng. Riềng bánh tẻ ngậm chữa viêm thanh quản (khàn tiếng) rất tốt. Củ riềng có tác dụng gây giãn mạch trên mạch máu cô lập và chống co thắt cơ trên ruột, có thể làm lành các vết loét, thay đổi một số thành phần trong thải lọc máu. Củ riềng chứa hàm lượng lớn flavonol galangin là chất đã được chứng minh là ngăn cản quá trình phát triển của tế bào ung thư vú. Chất Alpinia officinarum trong củ riềng chứa nồng độ cao của hợp chất galangin flavonol, đã được chứng minh để làm chậm hoặc chặn sự gia tăng tế bào khối u ung thư vú, đang được các nước phương tây áp dụng để điều chế thuốc trị ung thư. Các bài thuốc từ cây riềng 1- Chữa đau bụng do lạnh: Củ riềng 20g, nụ sim 8g, búp ổi 60g, tất cả sấy khô, tán bột. Ngày uống 3 lần sau ăn, mỗi lần 5g với nước sôi để nguội. Hoặc củ riềng 200g, quế 120g, hậu phác 80g, sấy khô. Sắc uống mỗi lần 12g với 200ml nước, còn 50ml uống trong ngày. Dùng trong 2 - 4 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 2- Chữa phong thấp: Củ riềng, vỏ quít, hạt tía tô mỗi vị 60g, sấy khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 4g, có thể pha với một chén nước sôi để nguội hoặc rượu, uống ngày 2 lần. Dùng trong 5 - 7 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 3- Chữa sốt rét: bột củ riềng 300g, bột quế khô, bột thảo quả mỗi thứ 100g, tất cả đem trộn với mật làm viên to bằng hạt ngô. Mỗi ngày dùng 15 viên trước khi lên cơn. Hoặc riềng tẩm dầu vừng sao 40g, gừng khô nướng 35g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, uống ngày 15 - 20 viên. (Theo BS Hoàng Sơn). 4- Trị chứng đầy bụng, khó tiêu: Củ riềng thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. Ngày dùng 2 - 3 lần. (Theo BS Hoàng Sơn). 5- Chữa đau dạ dày do hư hàn (đau có thời gian nhất định, gặp lạnh hay đói đau nhiều, đầy bụng, nôn nước trong, đại tiện lỏng, ăn uống không ngon, sợ lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm): củ riềng, hương phụ mỗi vị 8g, bách hợp, đan sâm mỗi vị 30g, ô dược 10g, đinh hương 7g, sa nhân 4g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng trong 5 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 6- Chữa hắc lào: Củ riềng già 100g, giã nhỏ, ngâm với 200ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi 2 - 3 lần. (Theo BS Hoàng Sơn). 7- Chữa lang ben: Củ riềng 100g, lá và củ chút chít 100g, chanh một quả, hai thứ giã nát rồi vắt nước chanh, đun nóng. Khi dùng lấy bông y tế thấm dịch thuốc bôi đều lên vùng tổn thương, ngày bôi 2 lần. Dùng trong 5 - 7 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 8- Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém: riềng củ thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. (Theo BS Hoàng Sơn). 9- Chữa ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả: hạt riềng tán nhỏ, uống 6 - 10g. (Theo BS Hoàng Sơn). 10- Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng sôi bụng, đại tiện phẩn lỏng: Củ riềng 12g, bạch truật 12g, lá lốt 16g, lá ổi 16g, sinh khương 6g. Cho các vị vào ấm đổ 3 bát nước sắc lấy 1,5 bát. Chia uống làm 2 - 3 lần trong ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 11- Chữa tiêu chảy nhiều lần, phân có lẫn bọt, quấy khóc ở trẻ em: hoài sơn 10g, liên nhục 10g, củ riềng 6g, bạch truật 10g, biển đậu 10g, hậu phác 4g, trần bì 6g, sinh khương 4g. Cho các vị vào ấm đổ nước 2 bát, sắc còn 1 bát, chia làm 2 - 3 lần uống trong ngày. (Theo BS Hoàng Sơn). 12- Chữa ngộ độc thức ăn, đau bụng, nôn mửa: (có những trường hợp đau bụng dữ dội kèm theo đại tiện lỏng, cơ thể có biểu hiện mất nước, rối loại điện giải, mạch nhanh, huyết áp dưới mức bình thường): Củ riềng 16g, hoàng liên 10g, biển đậu 12g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, sinh khương (nướng) 10g, thảo quả 10g, quế 6g, chích thảo 10g, bán hạ chế 8g. Cho các vị vào ấm, đổ nước 3 bát, sắc còn 1,5 bát, chia làm 3 lần uống (cách 2 giờ uống 1 lần). (Theo BS Hoàng Sơn). 13- Chữa chứng “Ngũ Canh tả” (cứ khoảng 5 giờ sáng là cần đi ngoài, khi muốn đi thì phải đi ngay, không ngừng lại được, phân lỏng, cơ thể yếu mệt, bụng lạnh, chân tay lạnh): Nguyên nhân do tỳ thận dương hư. Dùng bài thuốc: củ riềng phơi khô 16g, cẩu tích 12g, ngũ gia bì 12g, sơn thù 12g, hoài sơn 16g, cố chỉ 10g, đỗ trọng (sao muối) 12g, khởi tử 10g, bạch truật (sao hoàng thổ) 16g, hậu phác 12g, bán hạ chế 10g, trần bì 10g, sinh khương 6g, quế 10g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, 10 - 12 ngày là một liệu trình. (Theo BS Hoàng Sơn). 14- Bài thuốc xoa bóp: Củ riềng phơi khô 20g, thiên niên kiện 16g, quế 24g, thạch xương bồ 20g, trần bì (sao) 16g, nhân hạt gấc (sao vàng) 20g. Các vị thái nhỏ, bỏ vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm. Sau 10 ngày là có thể dùng được. Lấy bông tẩm vào thuốc, xoa vào chỗ đau, kết hợp day, bấm nhẹ. Dùng trong những trường hợp đau xương đau mình trật ngã, sang chấn, sưng đau các khớp, thần kinh tọa, đau nhức cục bộ…(Theo BS Hoàng Sơn). 15- Các bài thuốc trị đau dạ dày bằng củ riềng: - Đau dạ dày do hư hàn: Triệu chứng là đau có thời gian nhất định, gặp lạnh hay đói thì đau nhiều, đầy bụng, nôn nước trong, đại tiện lỏng, ăn uống không ngon, sợ lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng. Dùng tâm hợp thang gồm: Cao lương khương, hương phụ mỗi vị 6-10 g; bách hợp, đan sâm mỗi vị 30 g; ô dược 9-12 g; đinh hương 6-9 g; sa nhân 3-6 g. Sắc uống. (Theo SK&ĐS). - Đau dạ dày cấp: Bệnh nhân đau đớn khó chịu, nôn oẹ, ăn uống kém. Dùng các vị sau: cao lương khương (chế với đại hoàng), thanh bì, trần bì, mộc hương, thạch xương bồ mỗi vị 6 g; đinh hương 4 g; sơn tra 15 g. Sắc uống ngày một thang. (Theo SK&ĐS) - Chữa đau dạ dày: Đau dữ dội, trằn trọc không yên, chân tay lạnh, môi tái, bụng trướng. Dùng thang gia vị thược dược cam thảo: Bạch thược sao 30 g, cam thảo chích 10 g, cao lương khương 10 g, tô mộc 10 g, bạch chỉ 15 g. Tán bột, uống với nước lã đun sôi, hoặc sắc uống ngày một thang. (Theo SK&ĐS).
1. Tên gọi khác: Riềng thuốc, Lương khương (vị thuốc). Cao Lương Khương.
2. Tên tiếng Anh: Lesser Galangal
3. Tên khoa học: Alpinia officinarum Hance.
-Tên đồng nghĩa: A. graminifolia; Languas officinarum (Hance) P.H.Hô;
-Các loài tương cận:
Alpinia caerulea - Riềng Australia
Alpinia galanga - Riềng nếp, riềng ấm
Alpinia mutica - Riềng lá hẹp
Alpinia purpurata - Riềng đỏ, riềng tía
Alpinia zerumbet - Riềng ấm, riềng đẹp, sẹ nước, gừng ấm
Alpinia zingiberina- Riềng Thái
Phân loại khoa học
Bộ (ordo):
Gừng (Zingiberales)
Họ (familia):
Gừng (Zingiberaceae)
Phân họ (subfamilia):
Riềng (Alpinioideae)
Tông (tribus):
Riềng (Alpinieae)
Chi (genus):
Riềng (Alpinia)
Loài (species):
Riềng : Alpinia officinarum
Chi Riềng (Alpinia) là một chi thực vật lớn, chứa trên 230 loài thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Các phương pháp nghiên cứu dựa trên chuỗi ADN đã chỉ ra rằng các loài trong chi này phát sinh từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó tương ứng với cả sáu nhánh được phân bổ trong tông Riềng (Alpinieae), và nó không phù hợp với phân loại của Smith (1990) về chi này.
Chi Riềng được đặt tên cho Prospero Alpini, một nhà thực vật học người Ý thế kỷ 17 là người chuyên về thực vật kỳ lạ. Từ "riềng" (Lương Khương) xuất phát từ hình thức tiếng Ả Rập của một từ Trung Quốc cho cây Họ gừng, "Liang-Tiang" (Lương Khương).
Cây riềng (Alpinia officinarum) là một loài thực vật thuộc Chi riềng ((Alpinia) trong họ gừng, được xem là có nguồn gốc từ Trung Quốc.
4. Phân bố
Các loài trong chi Riềng có mặt tại các vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á và trên các đảo ở Thái Bình Dương, và được dùng phần lớn như là cây gia vị, cây thuốc và cây cảnh do những bông hoa sặc sỡ của chúng.
Cây riềng (Alpinia officinarum) có nguồn gốc ở Trung Quốc, nơi mà tên của nó xuất phát. Cây riềng phát triển chủ yếu trên bờ biển phía Đông Nam và ở Hải Nam Trung Quốc. Ngoài Trung Quốc cây riềng còn thấy mọc hoang và được trồng ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan và Ấn Độ.
Kể từ thế kỷ thứ 17 cây riềng theo đường hàng hàng hải được giao thương trên khắp thế giới. Ấn Độ là nước xuất khẩu củ riềng lớn thứ hai trên thế giới sau Hồng Kông.
Ở Việt Nam cây riềng mọc hoang và được trồng phổ biến ở mọi miền đất nước. Không chỉ được dùng làm gia vị mà còn được sử dụng làm thuốc. Ở miền nam, riềng được trồng ở hầu hết các tỉnh như Hồ chí Minh, Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau...
5. Mô tả
Cây riềng thuộc loại cây thân thảo sống nhiều năm, thích nghi nơi bóng râm nhưng kỵ ngập nước
+ Thân: Cây riềng có hai loại thân là thân rể và thân trên không:
Thân rể: Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ có phân nhánh, vỏ màu đỏ nâu, ruột màu vàng sáng. Được gọi là củ riềng. Củ riềng là bộ phận chủ yếu được dùng làm gia vị và làm thuốc. Củ riềng có tên là phong khương, cao lương khương, tiểu lương khương, có khá (Thái), kìm sung (Dao).
Thân trên không: Thân cây là các lá phiến ôm sát nhau thành bẹ, giống như ở các loài chuối. Là những cành mọc từ thân rể có chiều cao 40 -110 cm, có thể đến 1,5 m. Trên thân có đốt mang lá, thân già có thể phát triển nhánh bên. Hoa mọc trên thân khí sinh, là đỉnh của phần thân thật đã phát triển từ thân rể.
+ Rễ: Có dạng rể chùm, mọc từ các đốt ở dưới gốc và từ thân rễ.
+ Lá: Lá không cuống, hình mũi mác hẹp, dài 20 - 30cm, rộng 1,2 - 2,5cm; hai đầu đều nhọn, bẹ lá dạng vẩy, lưỡi bẹ dạng vẩy nhọn.
+ Hoa: Cụm hoa hình chùy, mọc ở ngọn, dài 6 - 10cm, có lông mềm. Cụm hoa mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một màu xanh, một màu trắng. Hoa mọc sít nhau, có lá bắc nhỏ.
Đài hoa hình ống, có lông, chia 3 răng ngắn.
Tràng có ống ngắn, có lông ở cả hai mặt, có 3 thùy tù, lõm, thùy lưng lớn hơn. Bao phấn hình chữ nhật. Cánh môi trắng có rạch màu đỏ rượu vang, hình trứng.
Nhị lép hình dùi ngắn và tù.
Bầu có lông, nhụy lép 2, hình bản dày, gần như vuông.
+ Quả: Quả hình cầu, có lông, rộng 1cm, màu hồng.
6. Thành phần hóa học
Theo nghiên cứu hiện đại, thành phần hóa học của riềng có khoảng 1% tinh dầu, có mùi thơm long não, chủ yếu có xineola và metylxinnamat. Ngoài ra, còn có chất dầu vị cay gọi là galangola được dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi...
Củ riềng chứa hàm lượng lớn flavonol galangin là chất đã được chứng minh là ngăn cản quá trình phát triển của tế bào ung thư vú.
Công dụng
Ở Trung Quốc và Đông Nam Á, củ và thân lá cây riềng được dùng làm gia vị và làm thuốc, bộ phận được dùng phổ biến nhất là phần thân rể được gọi là củ riềng, có thên vị thuốc là Lương Khương.
+ Theo đông y
Xưa nay, củ riềng vẫn được biết đến là một loại gia vị sử dụng trong nấu ăn còn tác dụng chữa bệnh thì không phải ai cũng biết.
Trong Đông y, Riềng có tên là Phong khương, Cao lương khương, Tiểu lương khương, Có khá (Thái), Kìm sung (Dao).
Cái tên Cao Lương Khương có nghĩa là Gừng (Khương) mọc ở đất Cao Lương (Trung Quốc) mà thành tên.
Theo Đông y, củ riềng có vị cay thơm, tính ấm vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu thức ăn, chữa đau bụng do lạnh, phong thấp, sốt rét, hắc lào, lang ben…
Riềng là loại thuốc sát trùng rất tốt giúp vết thương màu lành mà ít dể lại sẹo. Riềng cũng giúp giảm đau các khớp và cơ bắp. Những người mắc các bệnh về dạ dày sử dụng riềng trong chế độ ăn sẽ cải thiện phần nào tình trạng của bệnh. Ngoài ra, nó cũng trị được các chứng buồn nôn, đầy hơi hay thấp khớp dạng thấp. Do đặc tính kháng khuẩn tốt nên riềng luôn là vị thuốc bổ tốt cho sức khỏe , giúp ngăn ngừa các loại bệnh tật. Tuy nhiên với những người mặc bệnh về đường tiêu hóa và những phụ nữ đang mang thai tuyệt đối không nên sử dụng thường xuyên riềng vì nó có thể gây ra một số tác dụng phụ, có hại cho cơ thể.
+ Theo Tây y:
Củ riềng thường được dùng để điều chế thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi, đau bụng đi lỏng, nôn mửa, ợ hơi, đau dạ dày, cảm sốt, sốt rét, có thể nhai dập chữa đau răng. Riềng bánh tẻ ngậm chữa viêm thanh quản (khàn tiếng) rất tốt.
Củ riềng có tác dụng gây giãn mạch trên mạch máu cô lập và chống co thắt cơ trên ruột, có thể làm lành các vết loét, thay đổi một số thành phần trong thải lọc máu.
Chất Alpinia officinarum trong củ riềng chứa nồng độ cao của hợp chất galangin flavonol, đã được chứng minh để làm chậm hoặc chặn sự gia tăng tế bào khối u ung thư vú, đang được các nước phương tây áp dụng để điều chế thuốc trị ung thư.
Các bài thuốc từ cây riềng
1- Chữa đau bụng do lạnh: Củ riềng 20g, nụ sim 8g, búp ổi 60g, tất cả sấy khô, tán bột. Ngày uống 3 lần sau ăn, mỗi lần 5g với nước sôi để nguội.
Hoặc củ riềng 200g, quế 120g, hậu phác 80g, sấy khô. Sắc uống mỗi lần 12g với 200ml nước, còn 50ml uống trong ngày. Dùng trong 2 - 4 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
2- Chữa phong thấp: Củ riềng, vỏ quít, hạt tía tô mỗi vị 60g, sấy khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 4g, có thể pha với một chén nước sôi để nguội hoặc rượu, uống ngày 2 lần. Dùng trong 5 - 7 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
3- Chữa sốt rét: bột củ riềng 300g, bột quế khô, bột thảo quả mỗi thứ 100g, tất cả đem trộn với mật làm viên to bằng hạt ngô. Mỗi ngày dùng 15 viên trước khi lên cơn.
Hoặc riềng tẩm dầu vừng sao 40g, gừng khô nướng 35g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, uống ngày 15 - 20 viên. (Theo BS Hoàng Sơn).
4- Trị chứng đầy bụng, khó tiêu: Củ riềng thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. Ngày dùng 2 - 3 lần. (Theo BS Hoàng Sơn).
5- Chữa đau dạ dày do hư hàn (đau có thời gian nhất định, gặp lạnh hay đói đau nhiều, đầy bụng, nôn nước trong, đại tiện lỏng, ăn uống không ngon, sợ lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm): củ riềng, hương phụ mỗi vị 8g, bách hợp, đan sâm mỗi vị 30g, ô dược 10g, đinh hương 7g, sa nhân 4g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng trong 5 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
6- Chữa hắc lào: Củ riềng già 100g, giã nhỏ, ngâm với 200ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi 2 - 3 lần. (Theo BS Hoàng Sơn).
7- Chữa lang ben: Củ riềng 100g, lá và củ chút chít 100g, chanh một quả, hai thứ giã nát rồi vắt nước chanh, đun nóng. Khi dùng lấy bông y tế thấm dịch thuốc bôi đều lên vùng tổn thương, ngày bôi 2 lần. Dùng trong 5 - 7 ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
8- Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém: riềng củ thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. (Theo BS Hoàng Sơn).
9- Chữa ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả: hạt riềng tán nhỏ, uống 6 - 10g. (Theo BS Hoàng Sơn).
10- Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng sôi bụng, đại tiện phẩn lỏng: Củ riềng 12g, bạch truật 12g, lá lốt 16g, lá ổi 16g, sinh khương 6g. Cho các vị vào ấm đổ 3 bát nước sắc lấy 1,5 bát. Chia uống làm 2 - 3 lần trong ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
11- Chữa tiêu chảy nhiều lần, phân có lẫn bọt, quấy khóc ở trẻ em: hoài sơn 10g, liên nhục 10g, củ riềng 6g, bạch truật 10g, biển đậu 10g, hậu phác 4g, trần bì 6g, sinh khương 4g. Cho các vị vào ấm đổ nước 2 bát, sắc còn 1 bát, chia làm 2 - 3 lần uống trong ngày. (Theo BS Hoàng Sơn).
12- Chữa ngộ độc thức ăn, đau bụng, nôn mửa: (có những trường hợp đau bụng dữ dội kèm theo đại tiện lỏng, cơ thể có biểu hiện mất nước, rối loại điện giải, mạch nhanh, huyết áp dưới mức bình thường): Củ riềng 16g, hoàng liên 10g, biển đậu 12g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, sinh khương (nướng) 10g, thảo quả 10g, quế 6g, chích thảo 10g, bán hạ chế 8g. Cho các vị vào ấm, đổ nước 3 bát, sắc còn 1,5 bát, chia làm 3 lần uống (cách 2 giờ uống 1 lần). (Theo BS Hoàng Sơn).
13- Chữa chứng “Ngũ Canh tả” (cứ khoảng 5 giờ sáng là cần đi ngoài, khi muốn đi thì phải đi ngay, không ngừng lại được, phân lỏng, cơ thể yếu mệt, bụng lạnh, chân tay lạnh): Nguyên nhân do tỳ thận dương hư.
Dùng bài thuốc: củ riềng phơi khô 16g, cẩu tích 12g, ngũ gia bì 12g, sơn thù 12g, hoài sơn 16g, cố chỉ 10g, đỗ trọng (sao muối) 12g, khởi tử 10g, bạch truật (sao hoàng thổ) 16g, hậu phác 12g, bán hạ chế 10g, trần bì 10g, sinh khương 6g, quế 10g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, 10 - 12 ngày là một liệu trình. (Theo BS Hoàng Sơn).
14- Bài thuốc xoa bóp: Củ riềng phơi khô 20g, thiên niên kiện 16g, quế 24g, thạch xương bồ 20g, trần bì (sao) 16g, nhân hạt gấc (sao vàng) 20g. Các vị thái nhỏ, bỏ vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm.
Sau 10 ngày là có thể dùng được. Lấy bông tẩm vào thuốc, xoa vào chỗ đau, kết hợp day, bấm nhẹ. Dùng trong những trường hợp đau xương đau mình trật ngã, sang chấn, sưng đau các khớp, thần kinh tọa, đau nhức cục bộ…(Theo BS Hoàng Sơn).
15- Các bài thuốc trị đau dạ dày bằng củ riềng:
- Đau dạ dày do hư hàn: Triệu chứng là đau có thời gian nhất định, gặp lạnh hay đói thì đau nhiều, đầy bụng, nôn nước trong, đại tiện lỏng, ăn uống không ngon, sợ lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng. Dùng tâm hợp thang gồm: Cao lương khương, hương phụ mỗi vị 6-10 g; bách hợp, đan sâm mỗi vị 30 g; ô dược 9-12 g; đinh hương 6-9 g; sa nhân 3-6 g. Sắc uống. (Theo SK&ĐS).
- Đau dạ dày cấp: Bệnh nhân đau đớn khó chịu, nôn oẹ, ăn uống kém. Dùng các vị sau: cao lương khương (chế với đại hoàng), thanh bì, trần bì, mộc hương, thạch xương bồ mỗi vị 6 g; đinh hương 4 g; sơn tra 15 g. Sắc uống ngày một thang. (Theo SK&ĐS)
- Chữa đau dạ dày: Đau dữ dội, trằn trọc không yên, chân tay lạnh, môi tái, bụng trướng. Dùng thang gia vị thược dược cam thảo: Bạch thược sao 30 g, cam thảo chích 10 g, cao lương khương 10 g, tô mộc 10 g, bạch chỉ 15 g. Tán bột, uống với nước lã đun sôi, hoặc sắc uống ngày một thang. (Theo SK&ĐS).