Theo y học dân gian, rau (cải) tàu bay có vị đắng, mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, se da, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng
RAU TÀU BAY
1. Tên gọi khác: Cải tàu bay, cải trời rừng. 2. Tên tiếng Anh: Okinawan spinach. 3. Tên khoa học: Gynura crepidioides Benth. -Tên đồng nghĩa: Crassocephalum crepidioides, -Các loài tương cận: - G. aurantiaca - G. bicolor - G. cusimbua - G. formosana - G. japonica - G. nepalensis - G. pinnatifida - G. procumbens -G. vidaliana… Phân loại khoa học Bộ (ordo): Cúc (Asterales) Họ (familia): Cúc (Asteraceae) Phân họ (subfamilia): Cúc (Asteroideae) Tông (tribus): Senecioneae Chi (genus): Xuyên liên (Gynura) Loài (species): Gynura crepidioides Lưu ý! Không nên nhầm lẩn Cây Rau tàu bay với một loài cây khác có tên là Cỏ tàu bay (cây bơm bớp, cây cỏ Lào, cây cộng sản) có tên khoa học là Chromolarna odorata (L) King et Robinson. Đây là loài cây cũng phát tán hạt như cây tàu bay, lá xào ăn được nhưng rất hôi, chủ yếu dùng để làm thuốc. 4. Phân bố Chi Xuyên liên (Gynura) thuộc Họ cúc (Asteraceae) với khoảng 20 loài cây thân thảo hàng năm sống ở các trảng rừng cận nhiệt đới, có hình dạng giống như cây cải trời (Blumea lacera) mọc ở vùng đồng bằng. Rau tàu bay (Gynura crepidioides) là cây thân thảo đứng mọc hoang dại ở những nơi thoáng, len lỏi trong các cánh rừng hoặc bìa rừng, ven suối ở các vùng núi rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới...thuộc Châu Á, Châu Phi, các đảo ở Đông Nam Địa Trung Hải , Quần đảo Cook, các đảo ở Thái Bình Dương. Ngoài ra ở Mỹ loài cây này có ở bang Florida và ở Hawaii. Ở Việt Nam rau tàu bay mọc ở đồng bằng, trảng rừng, vùng núi khắp cả nước, nhiều nhất ở Miền đông Nam Bộ trong đó có Bà Rịa – vũng tàu. 5. Mô tả Là loài cây một năm, thích hợp với đất ẩm, phân bố rộng. Có thể mọc ở những nơi có độ cao tới 2.500 m, có thể tái tạo bằng hạt nảy mầm hoặc bằng thân cây. + Thân: Cây thân thảo mập, có rãnh mọc đứng, cao khoảng 0,4 m đến 0,5 m nhưng cũng có thể tới 1 m. + Rễ: Có rễ cái màu trắng hoặc nâu. + Lá: Lá to, mỏng, hình trứng dài, phần chóp phiến lá có hình thoi, phần dưới có những thuỳ xẻ sâu; mép lá có răng cưa to hoặc có khía, có mùi thơm. Làm rau luộc, xào và nấu canh ăn được. + Hoa: Cụm hoa dạng đầu, mọc ở nách lá hoặc ở ngọn, gồm nhiều hoa màu hồng nhạt đến đỏ và đỏ nâu, bao chung gồm hai hàng lá bắc hình sợi. Hoa lưỡng tính, hợp thành ngù, có mào lông mịn, trắng, mềm. Hoa nở từ tháng 9 đến tháng 2, ra quả từ tháng 10 đến tháng 3. Đầu các nhụy hoa lúc khô biến thành các túm bông nhẹ, bay theo gió, đem theo nhụy và hạt cây đi đến những nơi thuận lợi để sinh sôi. Khi có gió thổi, các nhụy hoa khô mang hạt bay uốn lượng trong gió để khuếch tán nên được gọi là rau tàu bay. Và tên gọi này cũng chỉ có trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vì kể từ thời kỳ này mới có “tàu bay”. + Quả: Quả bế hình trụ, có một mào lông trắng ở đỉnh. 6. Thành phần hóa học Có lẽ cũng vì ân tình đối với rau tàu bay mà trong hàng trăm loài rau rừng ăn được thì hiếm có loài rau rừng nào được các viện quân y và ngành Đông y và Tây y Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của rau tàu bay. Theo các ngiên cứu ở Việt Nam cho biết thành phần hóa học trong rau tàu bay tươi (tính theo %) như sau: nước 91,1%, protein 2,5%, lipid 0,2%, cellulose 1,6% dẫn xuất không protein 3,7%. Khoáng toàn phần 0,9%. Về vitamin có 3,4mg% caroten (tiền sinh tố A), 10mg% vitamin C. 7. Công dụng Theo y học dân gian, rau (cải) tàu bay có vị đắng, mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, se da, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng. Thường dùng cả cây phơi khô làm thuốc trị cảm sốt, hạ nhiệt, kích thích tiêu hóa và lợi tiểu. Dịch lá trừ giun, thu liễm, giã đắp trị mụn nhọt. Rau tàu bay có những công dụng phòng chữa bệnh như sau: - Rau tàu bay cung cấp các loại vitamin nói chung và vitamin A, C là những vitamin chống ôxy hóa, khử gốc tự do. - Rau tàu bay có nhiều xơ gây nhuận tràng và giảm hấp thu chất béo, làm thức ăn kiêng cho người béo phì. -Một số vùng dân cư người ta quen dùng rau tàu bay phòng chống côn trùng, rắn rết cắn, bằng cách giã nhuyễn xoa đắp lên chỗ bị tổn thương. (theo BS. Phó Đức Thuần).
1. Tên gọi khác: Cải tàu bay, cải trời rừng.
2. Tên tiếng Anh: Okinawan spinach.
3. Tên khoa học: Gynura crepidioides Benth.
-Tên đồng nghĩa: Crassocephalum crepidioides,
-Các loài tương cận:
- G. aurantiaca
- G. bicolor
- G. cusimbua
- G. formosana
- G. japonica
- G. nepalensis
- G. pinnatifida
- G. procumbens
-G. vidaliana…
Phân loại khoa học
Bộ (ordo):
Cúc (Asterales)
Họ (familia):
Cúc (Asteraceae)
Phân họ (subfamilia):
Cúc (Asteroideae)
Tông (tribus):
Senecioneae
Chi (genus):
Xuyên liên (Gynura)
Loài (species):
Gynura crepidioides
Lưu ý! Không nên nhầm lẩn Cây Rau tàu bay với một loài cây khác có tên là Cỏ tàu bay (cây bơm bớp, cây cỏ Lào, cây cộng sản) có tên khoa học là Chromolarna odorata (L) King et Robinson. Đây là loài cây cũng phát tán hạt như cây tàu bay, lá xào ăn được nhưng rất hôi, chủ yếu dùng để làm thuốc.
4. Phân bố
Chi Xuyên liên (Gynura) thuộc Họ cúc (Asteraceae) với khoảng 20 loài cây thân thảo hàng năm sống ở các trảng rừng cận nhiệt đới, có hình dạng giống như cây cải trời (Blumea lacera) mọc ở vùng đồng bằng.
Rau tàu bay (Gynura crepidioides) là cây thân thảo đứng mọc hoang dại ở những nơi thoáng, len lỏi trong các cánh rừng hoặc bìa rừng, ven suối ở các vùng núi rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới...thuộc Châu Á, Châu Phi, các đảo ở Đông Nam Địa Trung Hải , Quần đảo Cook, các đảo ở Thái Bình Dương. Ngoài ra ở Mỹ loài cây này có ở bang Florida và ở Hawaii.
Ở Việt Nam rau tàu bay mọc ở đồng bằng, trảng rừng, vùng núi khắp cả nước, nhiều nhất ở Miền đông Nam Bộ trong đó có Bà Rịa – vũng tàu.
5. Mô tả
Là loài cây một năm, thích hợp với đất ẩm, phân bố rộng. Có thể mọc ở những nơi có độ cao tới 2.500 m, có thể tái tạo bằng hạt nảy mầm hoặc bằng thân cây.
+ Thân: Cây thân thảo mập, có rãnh mọc đứng, cao khoảng 0,4 m đến 0,5 m nhưng cũng có thể tới 1 m.
+ Rễ: Có rễ cái màu trắng hoặc nâu.
+ Lá: Lá to, mỏng, hình trứng dài, phần chóp phiến lá có hình thoi, phần dưới có những thuỳ xẻ sâu; mép lá có răng cưa to hoặc có khía, có mùi thơm. Làm rau luộc, xào và nấu canh ăn được.
+ Hoa: Cụm hoa dạng đầu, mọc ở nách lá hoặc ở ngọn, gồm nhiều hoa màu hồng nhạt đến đỏ và đỏ nâu, bao chung gồm hai hàng lá bắc hình sợi. Hoa lưỡng tính, hợp thành ngù, có mào lông mịn, trắng, mềm. Hoa nở từ tháng 9 đến tháng 2, ra quả từ tháng 10 đến tháng 3. Đầu các nhụy hoa lúc khô biến thành các túm bông nhẹ, bay theo gió, đem theo nhụy và hạt cây đi đến những nơi thuận lợi để sinh sôi.
Khi có gió thổi, các nhụy hoa khô mang hạt bay uốn lượng trong gió để khuếch tán nên được gọi là rau tàu bay. Và tên gọi này cũng chỉ có trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vì kể từ thời kỳ này mới có “tàu bay”.
+ Quả: Quả bế hình trụ, có một mào lông trắng ở đỉnh.
6. Thành phần hóa học
Có lẽ cũng vì ân tình đối với rau tàu bay mà trong hàng trăm loài rau rừng ăn được thì hiếm có loài rau rừng nào được các viện quân y và ngành Đông y và Tây y Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của rau tàu bay.
Theo các ngiên cứu ở Việt Nam cho biết thành phần hóa học trong rau tàu bay tươi (tính theo %) như sau: nước 91,1%, protein 2,5%, lipid 0,2%, cellulose 1,6% dẫn xuất không protein 3,7%. Khoáng toàn phần 0,9%. Về vitamin có 3,4mg% caroten (tiền sinh tố A), 10mg% vitamin C.
7. Công dụng
Theo y học dân gian, rau (cải) tàu bay có vị đắng, mùi thơm, tính bình, có tác dụng thanh can hỏa, giải độc, se da, tiêu viêm, tán uất, tiêu hòn cục, cầm máu, sát trùng. Thường dùng cả cây phơi khô làm thuốc trị cảm sốt, hạ nhiệt, kích thích tiêu hóa và lợi tiểu. Dịch lá trừ giun, thu liễm, giã đắp trị mụn nhọt.
Rau tàu bay có những công dụng phòng chữa bệnh như sau:
- Rau tàu bay cung cấp các loại vitamin nói chung và vitamin A, C là những vitamin chống ôxy hóa, khử gốc tự do.
- Rau tàu bay có nhiều xơ gây nhuận tràng và giảm hấp thu chất béo, làm thức ăn kiêng cho người béo phì.
-Một số vùng dân cư người ta quen dùng rau tàu bay phòng chống côn trùng, rắn rết cắn, bằng cách giã nhuyễn xoa đắp lên chỗ bị tổn thương.
(theo BS. Phó Đức Thuần).