Theo các tài liệu đông y cổ, bồ hoàng có vị cam, tính bình; đi vào ba kinh can, tỳ và tâm bào. Sinh bồ hoàng có tác dụng hoạt huyết, hành ứ, tiêu viêm; dùng chữa các loại bệnh trật đã tổn thương, phụ nữ đau bụng kinh, kinh bế, kinh nguyệt không đều, huyết ứ, đau ngực, đau hông, bạch đái, tiểu tiện không thông và một số trường hợp bị viêm nhiễm.
CÂY BỒN BỒN
1. Tên khoa học: Typha orientalis 2. Tên khác: Thủy hương bồ, hương bồ thảo, cỏ nến 3. Mô tả: Thân: Nhìn thoáng qua cỏ nến gần giống như cây lác (cói) dệt chiếu, cao từ 1-2 mét. Cỏ nến ở các nước ôn đới có thể cao đến 7 m. Lá: Lá dài và hẹp. Hoa đơn tính, nằm trên cùng một trục trông giống như một cây nến, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu, hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Quả nhỏ hình thoi. Phấn hoa của các loài cỏ nến được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông với tên là bồ hoàng. Vào tháng 4 – 8 dương lịch, cắt lấy phần trên của bông hoa (phần hoa đực), giã hay rũ lấy phấn hoa, rây loại bỏ tạp chất, phơi hoặc sấy khô, cất trong lọ kín dùng dần. Thứ phấn hoa hạt nhỏ, màu vàng óng, tốt hơn thứ màu nâu. Bồ hoàng có thể dùng sống, sao vàng hoặc sao đen - tuỳ thuộc vào loại bênh được chữa, và công dụng làm thuốc của bồ hoàng cũng rất đa dạng vì chữa được rất nhiều bệnh. 4. Phân bố và sinh thái: Chi Cỏ nến hoặc Hương bồ phân bố rộng rãi trên thế giới ở bán cầu Bắc. Cây bồn bồn Typha orientalis, thường được gọi là cây bồ hoàng, bullrush, cumbungi tại Úc, hoặc raupō ở New Zealand , là một cây thân thảo lâu năm trong chi Typha. Nó có thể được tìm thấy ở Việt Nam, Úc, New Zealand, Malaysia , Indonesia và Tây Thái Bình Dương. Ở Việt Nam Cỏ nến mọc hoang ven rìa đầm lầy nước ngọt hoặc lợ, ít phèn, chủ yếu tập trung ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau (thuộc cực nam Nam Bộ), tuy cũng gặp rải rác ở các vùng đất ngập nước khác của miền tây Nam Bộ như Đồng Tháp, An Giang,… 5. Công dụng Phấn hoa của các loài này cũng được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông với tên gọi bồ hoàng. Theo y học cổ truyền Việt Nam: Hoa bồn bồn có tác dụng tốt trong điều trị bệnh, nhất là những bệnh của phụ nữ. Hoa bồn bồn thuộc loại đơn tính, nằm trên cùng một trục, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu, hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Khi thu hái cây bồn bồn, cắt lấy hoa đực phơi khô, giã nhỏ, rây lấy phấn hoa, đem phơi lại lần nữa. Loại phấn hoa này có tên là bồ hoàng (Pollel Typhae), nếu để nguyên như thế gọi là sinh bồ hoàng, đem sao đen gọi là hắc bồ hoàng. Bồ hoàng là vị thuốc đã được ông bà ta và nhiều dân tộc ở phương Đông sử dụng từ hàng ngàn năm trước. Theo các tài liệu đông y cổ, bồ hoàng có vị cam, tính bình; đi vào ba kinh can, tỳ và tâm bào. Sinh bồ hoàng có tác dụng hoạt huyết, hành ứ, tiêu viêm; dùng chữa các loại bệnh trật đã tổn thương, phụ nữ đau bụng kinh, kinh bế, kinh nguyệt không đều, huyết ứ, đau ngực, đau hông, bạch đái, tiểu tiện không thông và một số trường hợp bị viêm nhiễm. Riêng hắc bồ hoàng có tác dụng thu liễm, chỉ huyết, dùng để chữa các chứng ho ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, thổ huyết, rong kinh, rong huyết, tiểu tiện ra huyết... Bồ hoàng được dùng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột đều có hiệu quả. Liều dùng mỗi lần từ 4-8g. Tuệ Tĩnh, danh y của Việt Nam, rất tâm đắc với vị thuốc bồ hoàng, ông đã để lại trong Nam dược thần hiệu những bài thuốc hay có bồ hoàng như: + Thổ huyết: Bồ hoàng sao đen mỗi lần uống từ 4 - 8g. + Chảy máu cam: Bồ hoàng sao đen 4g và thanh đại 4g; uống một lần. + Đại tiện ra máu: Bồ hoàng sao đen, mỗi lần uống từ 4 - 8g với nước cốt lá sen và nước cốt củ cải. + Khạc ra máu: Bồ hoàng và lá sen, hai vị bằng nhau, sao, tán bột; mỗi lần uống từ 8 - 12g. + Đau bụng kinh, rong kinh, kinh nguyệt không đều: Bồ hoàng sao, lá lốt tẩm muối sao, tán nhỏ luyện mật làm hoàn bằng hạt đậu; mỗi lẫn uống 30 hoàn. + Sản phụ đau bụng do máu hôi ra không hết: Bồ hoàng sao qua một lớp giấy, mỗi lần uống 4g. Giáo sư Đỗ Tất Lợi cũng ghi lại một bài thuốc kinh nghiệm trong tác phẩm “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” dùng chữa các chứng xuất huyết bên trong: Bồ hoàng 5g, cao ban long, cam thảo 2g; sắc uống. Một số y thư của Trung Quốc cũng ghi lại nhiều bài thuốc kinh nghiệm có bồ hoàng như sau: + Lưỡi sưng đầy miệng: Sinh bồ hoàng đặt dưới lưỡi, ngày thay vài lần là khỏi (Giản tiện phương). +Thổ huyết, tiểu tiện ra huyết: Bồ hoàng sao tán bột, mỗi lẫn uống 4g với nước cốt sinh địa (Thánh tể Tổng lục phương) . + Mụn mọc trong ruột, trĩ ra huyết, ra nước vàng: Bồ hoàng tán bột, mỗi lần uống 8g với nước lạnh (Trửu hậu phương) . + Phụ nữ có mang bị động thai như muốn đẻ non: Bồ hoàng sao đen tán bột, uống 4g với nước giếng (Tập nhất phương) ... + Hạ bộ bị thấp nhiệt, ẩm ướt gây ngứa ngáy, khó chịu: Sinh bồ hoàng tán bột thoa vài lần là khỏi (Thiên kim phương) . + Lỗ tai bị thối: Sinh bồ hoàng tán bột thổi vào vài lần là khỏi (Thánh huệ phương).
1. Tên khoa học: Typha orientalis
2. Tên khác: Thủy hương bồ, hương bồ thảo, cỏ nến
3. Mô tả:
Thân: Nhìn thoáng qua cỏ nến gần giống như cây lác (cói) dệt chiếu, cao từ 1-2 mét. Cỏ nến ở các nước ôn đới có thể cao đến 7 m. Lá: Lá dài và hẹp. Hoa đơn tính, nằm trên cùng một trục trông giống như một cây nến, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu,
hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Quả nhỏ hình thoi. Phấn hoa của các loài cỏ nến được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông với tên là bồ hoàng. Vào tháng 4 – 8 dương lịch, cắt lấy phần trên của bông hoa (phần hoa đực), giã hay rũ lấy phấn hoa, rây loại bỏ tạp chất, phơi hoặc sấy khô, cất trong lọ kín dùng dần. Thứ phấn hoa hạt nhỏ, màu vàng óng, tốt hơn thứ màu nâu. Bồ hoàng có thể dùng sống, sao vàng hoặc sao đen - tuỳ thuộc vào loại bênh được chữa, và công dụng làm thuốc của bồ hoàng cũng rất đa dạng vì chữa được rất nhiều bệnh.
4. Phân bố và sinh thái:
Chi Cỏ nến hoặc Hương bồ phân bố rộng rãi trên thế giới ở bán cầu Bắc.
Cây bồn bồn Typha orientalis, thường được gọi là cây bồ hoàng, bullrush, cumbungi tại Úc, hoặc raupō ở New Zealand , là một cây thân thảo lâu năm trong chi Typha. Nó có thể được tìm thấy ở Việt Nam, Úc, New Zealand, Malaysia , Indonesia và Tây Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam Cỏ nến mọc hoang ven rìa đầm lầy nước ngọt hoặc lợ, ít phèn, chủ yếu tập trung ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau (thuộc cực nam Nam Bộ), tuy cũng gặp rải rác ở các vùng đất ngập nước khác của miền tây Nam Bộ như Đồng Tháp, An Giang,…
5. Công dụng
Phấn hoa của các loài này cũng được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông với tên gọi bồ hoàng. Theo y học cổ truyền Việt Nam: Hoa bồn bồn có tác dụng tốt trong điều trị bệnh, nhất là những bệnh của phụ nữ. Hoa bồn bồn thuộc loại đơn tính, nằm trên cùng một trục, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu, hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Khi thu hái cây bồn bồn, cắt lấy hoa đực phơi khô, giã nhỏ, rây lấy phấn hoa, đem phơi lại lần nữa. Loại phấn hoa này có tên là bồ hoàng (Pollel Typhae), nếu để nguyên như thế gọi là sinh bồ hoàng, đem sao đen gọi là hắc bồ hoàng. Bồ hoàng là vị thuốc đã được ông bà ta và nhiều dân tộc ở phương Đông sử dụng từ hàng ngàn năm trước.
Riêng hắc bồ hoàng có tác dụng thu liễm, chỉ huyết, dùng để chữa các chứng ho ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam, thổ huyết, rong kinh, rong huyết, tiểu tiện ra huyết... Bồ hoàng được dùng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột đều có hiệu quả. Liều dùng mỗi lần từ 4-8g.
Tuệ Tĩnh, danh y của Việt Nam, rất tâm đắc với vị thuốc bồ hoàng, ông đã để lại trong Nam dược thần hiệu những bài thuốc hay có bồ hoàng như:
+ Thổ huyết: Bồ hoàng sao đen mỗi lần uống từ 4 - 8g.
+ Chảy máu cam: Bồ hoàng sao đen 4g và thanh đại 4g; uống một lần.
+ Đại tiện ra máu: Bồ hoàng sao đen, mỗi lần uống từ 4 - 8g với nước cốt lá sen và nước cốt củ cải.
+ Khạc ra máu: Bồ hoàng và lá sen, hai vị bằng nhau, sao, tán bột; mỗi lần uống từ 8 - 12g.
+ Đau bụng kinh, rong kinh, kinh nguyệt không đều: Bồ hoàng sao, lá lốt tẩm muối sao, tán nhỏ luyện mật làm hoàn bằng hạt đậu; mỗi lẫn uống 30 hoàn.
+ Sản phụ đau bụng do máu hôi ra không hết: Bồ hoàng sao qua một lớp giấy, mỗi lần uống 4g.
Giáo sư Đỗ Tất Lợi cũng ghi lại một bài thuốc kinh nghiệm trong tác phẩm “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” dùng chữa các chứng xuất huyết bên trong: Bồ hoàng 5g, cao ban long, cam thảo 2g; sắc uống.
Một số y thư của Trung Quốc cũng ghi lại nhiều bài thuốc kinh nghiệm có bồ hoàng như sau:
+ Lưỡi sưng đầy miệng: Sinh bồ hoàng đặt dưới lưỡi, ngày thay vài lần là khỏi (Giản tiện phương).
+Thổ huyết, tiểu tiện ra huyết: Bồ hoàng sao tán bột, mỗi lẫn uống 4g với nước cốt sinh địa (Thánh tể Tổng lục phương) .
+ Mụn mọc trong ruột, trĩ ra huyết, ra nước vàng: Bồ hoàng tán bột, mỗi lần uống 8g với nước lạnh (Trửu hậu phương) .
+ Phụ nữ có mang bị động thai như muốn đẻ non: Bồ hoàng sao đen tán bột, uống 4g với nước giếng (Tập nhất phương) ...
+ Hạ bộ bị thấp nhiệt, ẩm ướt gây ngứa ngáy, khó chịu: Sinh bồ hoàng tán bột thoa vài lần là khỏi (Thiên kim phương) .
+ Lỗ tai bị thối: Sinh bồ hoàng tán bột thổi vào vài lần là khỏi (Thánh huệ phương).